Giống như xe hơi đã định ra thế kỉ 20, điện thoại thông minh đang tái định hình cách chúng ta sống và làm việc ngày nay.
Nguồn: Nicole M Aschoff, “The Smartphone Society”, Jacobin Magazine, 03/2015.
Biên dịch: Duy Đoàn | Biên tập: Lê Hồng Hiệp.
Trong nhiều phương diện thì xe hơi là một món hàng quyết định của thế kỉ hai mươi. Tầm quan trọng của nó không bắt nguồn từ tính thục luyện kĩ nghệ hoặc độ phức tạp của dây chuyền sản xuất, mà thay vào đó bắt nguồn từ khả năng phản ánh và định hình xã hội. Những phương thức mà chúng ta sản xuất, tiêu dùng, sử dụng và điều tiết xe hơi chính là cửa sổ giúp chúng ta hiểu được chủ nghĩa tư bản của thế kỉ hai mươi – một cái nhìn sơ bộ về cách mà phần xã hội, chính trị và kinh tế giao cắt và đụng độ nhau.
Ngày nay, trong một giai đoạn mà đặc trưng là sự tài chính hóa và toàn cầu hóa, trong đó “thông tin” nằm ở ngôi vua, thì ý tưởng về bất kì món hàng nào định nên thời đại này trông có vẻ lạ kì. Nhưng hàng hóa ngày nay không kém phần quan trọng, và mối quan hệ của con người với chúng vẫn còn là điều trọng tâm để hiểu được xã hội. Nếu xe hơi là nền tảng để nắm bắt thế kỉ trước, thì điện thoại thông minh chính là món hàng quyết định nên thời đại chúng ta.
Ngày nay người ta đang dành nhiều thời giờ cho điện thoại của họ. Họ kiểm tra điện thoại liên tục suốt cả ngày và giữ điện thoại luôn ở gần bên mình. Họ ngủ kế bên điện thoại, mang chúng vào phòng tắm, và chăm chú vào chúng khi đang đi bộ, đang ăn, học, làm việc, chờ đợi và đang lái xe. 20% số thanh niên thậm chí còn thừa nhận có kiểm tra điện thoại trong lúc quan hệ tình dục.
Khi người ta dường như luôn mang chúng trên tay hoặc bỏ chúng trong túi ở bất cứ chỗ nào họ đến, suốt cả ngày dài, thì điều đó nghĩa là gì? Để cắt nghĩa cho cái mà chúng tôi cho là chứng nghiện điện thoại tập thể, chúng ta nên làm theo lời khuyên của Harry Braverman, và khảo xét “một mặt là chiếc máy và mặt kia là những mối liên hệ xã hội, và thể cách mà hai điều đó hợp cùng nhau trong xã hội.”
Thủ cơ (hand machine)
Người của Apple gọi cơ sở sản xuất của hãng Foxconn ở Thâm Quyến là Mordor – địa ngục của xứ Middle Earth trong tác phẩm của nhà văn J. R. R. Tolkien. Như một loạt vụ tự tử năm 2010 cho thấy một cách bi thảm, tên gọi như thế chỉ là cách nói cường điệu không quá bao nhiêu cho những nhà máy nơi mà những công nhân trẻ Trung Quốc làm công việc lắp ráp iPhone. Chuỗi cung ứng của Apple đã liên kết những nhóm lớn các kĩ sư phần mềm với hàng trăm nhà cung ứng linh kiện tại Bắc Mĩ, châu Âu và Đông Á – Gorilla Glass từ Kentucky, bộ đồng xử lí chuyển động từ Hà Lan, con chip máy ảnh từ Đài Loan, và các mô-đun truyền dữ liệu từ Costa Rica, hết thảy đều được tuồn vào những nhà máy lắp ráp ở Trung Quốc.
Các xu hướng vừa sáng tạo vừa tiêu huỷ của chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy những thay đổi liên tục trong những mạng lưới sản xuất toàn cầu, và bên trong những mạng lưới này, quyền lực nằm ở những hình trạng mới của tập đoàn và nhà nước. Ngày xưa, cái chi phối là những chuỗi cung ứng do nhà sản xuất xúc tiến, điển hình là những ngành công nghiệp như xe hơi và thép. Những người như Lee Iacocca và huyền thoại Boeing Bill Allen sẽ là những người quyết định cần phải làm ra những gì, làm ra ở đâu và bán ra bao nhiêu.
Nhưng khi những xung đột kinh tế và chính trị của giai đoạn bùng nổ thời hậu chiến tăng cao vào thập niên 1960 và 1970, thì ngày càng nhiều quốc gia ở Nam Bán cầu đã tiến hành các chiến lược định hướng theo xuất khẩu nhằm đạt được các mục tiêu phát triển của mình. Một loại chuỗi cung ứng mới xuất hiện (đặc biệt trong những ngành công nghiệp nhẹ như quần áo, đồ chơi, và đồ điện tử) mà trong đó nhà bán lẻ, chứ không phải nhà sản xuất, mới là người nắm quyền kiểm soát. Trong những mô hình do người mua thúc đẩy như thế này, các công ti như Nike, Liz Claiborne và Walmart đã thiết kế hàng hóa, đặt giá thành cho nhà sản xuất (gia công), và sở hữu không gì nhiều ngoài những nhãn hiệu sinh lợi của mình.
Quyền lực và sự cai quản nằm ở nhiều điểm trong chuỗi sản xuất điện thoại thông minh, và sản xuất và thiết kế được tích hợp ở tầm sâu trên quy mô toàn cầu. Nhưng những hình trạng quyền lực mới này có xu hướng củng cố cho thứ bậc thịnh vượng hiện có: những nước thu nhập ít và trung bình sẽ cố gắng trong tuyệt vọng để bước vào những nút điểm nào sinh nhiều lợi hơn thông qua việc phát triển cơ sở hạ tầng và những hiệp định thương mại, nhưng những cơ hội nâng cấp của họ lại quá xa vời và ít ỏi, và những nỗ lực của công nhân nhằm cải thiện hoàn cảnh và lương bổng sẽ bị chính cái bản chất toàn cầu của sản xuất làm cho trở nên cực kì khó khăn.
Những công nhân mỏ coltan ở Congo ở cách ban điều hành của Nokia hơn cả một đại dương – họ bị chia cách bởi lịch sử và chính trị, bởi mối quan hệ của đất nước họ với giới tài chính, và bởi hàng rào sự phát triển kéo dài nhiều thập niên, mà nhiều yếu tố trong số đó có gốc rễ từ chủ nghĩa thực dân.
Chuỗi giá trị của lĩnh vực điện thoại thông minh là tấm bản đồ hữu dụng của sự bóc lột toàn cầu, khía cạnh chính trị của thương mại, sự phát triển không đồng đều, và của năng lực kho vận, nhưng cái ý nghĩa sâu xa hơn của thiết bị này lại nằm ở chỗ khác. Để khám phá những dịch chuyển tinh vi hơn vốn được minh hoạ và được tạo điều kiện bởi chiếc điện thoại thông minh này, chúng ta phải chuyển từ quy trình mà qua đó con người dùng máy móc để tạo ra điện thoại sang quy trình mà qua đó chúng ta dùng chính cái điện thoại đó như là một chiếc máy.
Việc xem xét điện thoại như chiếc máy, ở một số phương diện, là việc làm gần như rõ ràng theo trực quan. Thực vậy, từ tiếng Trung Quốc dành cho điện thoại di động là shouji (手机 – thủ cơ), tức “chiếc máy cầm tay”. Người ta thường dùng thủ cơ như cách họ vẫn thường dùng với bất cứ công cụ nào khác, đặc biệt tại nơi làm việc. Thiết bị này trở nên thiết yếu từ các nhu cầu mang tính chất tân tự do (neoliberal) đòi hỏi những công nhân linh hoạt, di động và có kết nối.
Điện thoại thông minh đã nới rộng nơi làm việc về mặt không gian lẫn thời gian. Email có thể được trả lời vào bữa ăn sáng, phần đặc tả kĩ thuật có thể được duyệt trên chuyến tàu điện về nhà, và cuộc họp ngày hôm sau có thể được xác nhận trước khi tắt đèn. Internet trở thành địa điểm làm việc, với văn phòng chỉ còn là một cái chấm trên tấm bản đồ mênh mông của những khu vực làm việc khả dĩ.
Ngày làm việc mở rộng thông qua điện thoại thông minh và việc này trở nên rộng khắp và có tác động tiêu cực đến mức các nhóm lao động đang phản kháng lại. Tại Pháp, các công đoàn và doanh nghiệp công nghệ đã kí một thoả thuận vào tháng Tư năm 2014 công nhận quyền ngắt kết nối của 250.000 công nhân kĩ thuật sau ngày làm việc, và Đức hiện đang suy xét bộ luật cấm email và cuộc gọi điện thoại sau giờ làm việc. Bộ trưởng Bộ lao động Đức Andrea Nahles đã kể cho một tờ báo Đức biết rằng đó là vấn đề “không bàn cãi khi có một mối liên hệ giữa việc luôn sẵn sàng làm việc với những chứng bệnh tâm lí.”
Điện thoại thông minh cũng có thể tạo điều kiện cho sự ra đời của những loại công việc mới và những cách thức mới trong việc tiếp cận thị trường lao động. Trong “khu vực thị trường dành cho những công việc lạ lùng”, những công ti như TaskRabbit và Postmates đã xây dựng những mô hình kinh doanh cho mình bằng cách tận dụng “lực lượng lao động được phân bổ” qua điện thoại thông minh.
TaskRabbit kết nối những người muốn tránh làm những chuyện nhàm chán thường ngày với những người tuyệt vọng đến mức làm những công việc lạ lùng trả theo giờ để có tiền. Những ai không muốn làm mấy việc vặt, như ủi quần áo hay lau dọn sau bữa tiệc sinh nhật đứa con của mình, sẽ liên kết với những “tasker” bằng ứng dụng di động của TaskRabbit.
Tasker là những người phải luôn theo dõi điện thoại của mình để tìm kiếm những việc làm tiềm năng (thời gian phản hồi là điều quyết định ai nhận được việc); người tiêu dùng có thể đặt việc hoặc huỷ việc một tasker trong lúc tasker này đang di chuyển; và khi làm xong việc một cách tốt đẹp, người hành nghề có thể được trả tiền trực tiếp qua điện thoại.
Postmates – sản phẩm của nền kinh tế công việc thời vụ – là kẻ mới xuất hiện trong thế giới kinh doanh, đặc biệt sau khi Spark Capital bơm 16 triệu dollar vào đó hồi đầu năm nay. Postmates theo dõi “người vận chuyển” (courier) của mình ở nhiều thành phố như Boston, San Francisco và New York bằng một ứng dụng di động trên iPhone của những người đó khi họ hộc tốc chuyển món taco làm thủ công và món latte vị vanilla không đường đến các hộ gia đình và các văn phòng. Khi có việc mới, ứng dụng sẽ vạch đường từ việc đó đến người vận chuyển gần nhất, người này phải hồi đáp ngay lập tức và hoàn thành nhiệm vụ này trong vòng một giờ để được trả tiền.
Người vận chuyển, vốn không phải là nhân viên chính thức của Postmates, ít nhiệt thành hơn Spark. Họ nhận được 3,75 đô la cho mỗi chuyến giao hàng cộng với tiền bo, và vì họ được xếp loại là người hành nghề độc lập, nên họ không được bảo vệ theo luật lương tối thiểu.
Bằng cách này, những chiếc điện thoại dễ dàng phù hợp với thế giới công việc hiện đại này. Điện thoại thông minh tạo điều kiện thuận lợi cho những mô hình việc làm thời vụ và tự khai thác bản thân bằng cách liên kết người làm với giới tư bản mà không có chi phí cố định và không có khoản đầu tư cho mặt xúc cảm người làm như những mối liên hệ việc làm theo kiểu truyền thống.
Nhưng điện thoại thông minh còn hơn là một món đồ kĩ nghệ để làm công ăn lương – chúng còn trở thành một phần bản sắc của chúng ta. Khi ta dùng điện thoại nhắn tin cho bạn bè và người yêu, đăng bình luận lên Facebook, hay lướt qua những dòng tin Twitter, lúc ấy ta không làm việc – ta đang thư giãn, ta đang giải trí, ta đang tạo ra điều gì đó. Dù vậy, dần dần tích lại qua những hành động nhỏ bé này, kết cuộc ta sẽ sản sinh ra được một thứ gì đó cá biệt và đáng giá: bản ngã của chúng ta.
Bản ngã được rao bán
Erving Goffman, một nhà xã hội học nhiều ảnh hưởng của Mĩ, là người lưu tâm đến bản ngã và cách thức người ta sản sinh cũng như trình diễn bản ngã của mình thông qua mối tương tác xã hội. Theo như thừa nhận của chính ông, Goffman mang trong mình một chút chất Shakespeare – đối với ông ta “toàn bộ cõi sống này là một sân khấu”. Ông biện luận rằng những mối tương tác xã hội có thể được coi như những màn trình diễn, và màn trình diễn của người ta sẽ thay đổi tuỳ thuộc vào khán giả của họ.
Chúng ta thực hiện màn trình diễn “trên sân khấu” cho những người nào mà ta muốn gây ấn tượng, đó có thể là người quen, đồng nghiệp, hoặc những người họ hàng ưa đánh giá. Màn trình diễn sân khấu mang lại vẻ ngoài cho thấy hành động của ta đang “duy trì và biểu hiện cho những chuẩn mực nhất định”. Những trình diễn này sẽ thuyết phục người xem rằng chúng ta thực sự là cái người mà ta bảo là thế: một con người có trách nhiệm, thông minh và có đạo đức.
Nhưng những màn trình diễn sân khấu có thể dễ lung lay và thường gây tổn hại thanh danh do phạm những sai lầm – vạ miệng, hiểu sai dấu hiệu của người khác, ăn vụng quên chùi mép, hoặc bị bắt quả tang đang nói dối. Goffman hứng thú với chuyện ta cố gắng nhiều đến thế nào để thành thạo và duy trì những màn trình diễn sân khấu của mình và chuyện ta thất bại thường xuyên đến mức nào khi trình diễn.
Điện thoại thông minh là vật trời ban để chất hí kịch len vào các phương diện của cuộc đời. Chúng cho phép ta quản lí được những ấn tượng mà ta tạo ra đối với người khác bằng độ chuẩn xác từng li từng tí. Thay vì nói chuyện với nhau, ta gửi tin nhắn, hoạch định các kiểu dí dỏm và các chiến lược né tránh. Chúng ta có thể trưng ra sở thích toàn bích của mình trên Pinterest, các kĩ năng nuôi dạy con ưu việt trên CafeMom, và phát triển những tài năng nghệ thuật trên Instagram, hết thảy đều theo thời gian thực.
Tạp chí New York gần đây cho chạy một bài viết về bốn dạng người được người ta thèm muốn nhất ở thành phố New York theo thông tin từ trang OKCupid. Những người này đã chăm chút cho hồ sơ kết bạn của mình lôi cuốn đến mức họ bị chú ý quá nhiều và nhận những lời yêu cầu sốt sắng tới dồn dập – điện thoại của họ kêu liên tục với những tin nhắn từ những tình nhân tiềm năng. Tom, một trong bốn người được chọn, thường xuyên tinh chỉnh hồ sơ của mình, thay vào nhiều ảnh mới, và trau chuốt từ ngữ mô tả bản thân mình. Anh ta còn sử dụng dịch vụ tối ưu hoá hồ sơ MyBestFace của OKCupid.
Tom bảo rằng toàn bộ nỗ lực thế này là cần thiết trong “nền văn hoá like” hiện tại của chúng ta. Tom xem hồ sơ OKCupid của mình là “phần mở rộng của bản thân”: “Tôi muốn nó trông thật ổn và sạch sẽ, cứ như là tôi bắt nó tập cơ bắp các thứ vậy.”
Phạm vi lan tỏa đến mức khó tin của truyền thông xã hội và việc tiếp nhận nhanh chóng của nhiều người cũng như việc trình diễn bản ngã của họ hết thảy đã làm xuất hiện những nghi thức tương tác mới vốn lấy công nghệ làm trung gian. Điện thoại thông minh giờ đây là trung tâm cho cách thức ta “tạo ra, duy trì, sửa chữa cũng như thách thức hay kháng cự lại các mối quan hệ”.
Thử nhìn vào các nghi thức nhắn tin, mà với tất cả các quy tắc phức tạp, bất thành văn, đã đóng một vai trò chủ đạo ở những động thái của người trẻ trong các mối quan hệ. Ta không cần phải chấp nhận nỗi hoài niệm buồn bã để thừa nhận rằng các nghi thức mới qua trung gian công nghệ đang dần thay thế hoặc đang biến đổi triệt để các cách thức xưa cũ.
Dùng kĩ thuật số để duy trì, tạo ra và tranh đoạt các mối quan hệ thông qua điện thoại thông minh thì phần nào khác với việc dùng điện thoại để hoàn thành nhiệm vụ liên quan đến chuyện làm công ăn lượng. Người ta không được trả tiền cho bộ hồ sơ Tinder của họ hoặc cho việc tải lên Snapchat những bức ảnh của chuyến phiêu lưu cuối tuần của mình, nhưng cái bản ngã và nghi thức họ tạo ra chắc chắn sẽ được đem bán. Bất kể dụng ý ra sao, khi người ta dùng điện thoại thông minh kết nối với nhiều người và với cộng đồng ảo kĩ thuật số, thì đầu ra của những việc làm vì đam mê đó có thể sẽ được bán như một món hàng.
Những công ti như Facebook là người tiên phong trong việc đóng gói và bán những bản ngã kĩ thuật số này. Năm 2013, Facebook có 945 triệu người dùng truy cập trang của họ bằng điện thoại thông minh. Con số này chiếm 89% lợi nhuận của họ từ quảng cáo trong năm đó, một nửa số đó đến từ quảng cáo trên thiết bị di động. Toàn bộ kiến trúc của nó được thiết kế để dẫn dắt việc sản xuất bản ngã trên thiết bị động thông qua một nền tảng làm cho những bản ngã đó trở nên dễ bán.
Đó là lí do tại sao Facebook lập chính sách “dùng tên thật”: “giả vờ làm thứ gì đó hoặc làm ai đó khác là điều không được phép”. Facebook cần người dùng sử dụng tên theo pháp lí để họ dễ dàng khớp nối những bản ngã doanh nghiệp với những bản ngã kĩ thuật số, vì dữ liệu do một người thật tạo ra và kết nối thì dễ sinh lợi hơn.
Những người dùng của trang mạng hẹn hò OKCupid đã đồng ý với cùng một trao đổi: “dữ liệu đổi lấy một cuộc hẹn”. Những công ti bên thứ ba ngồi ở hậu trường của trang mạng đó, gom hết ảnh người dùng, cùng các quan điểm chính trị và tôn giáo của người dùng, và thậm chí cả những cuốn tiểu thuyết của David Foster Wallace mà người dùng thú nhận là rất yêu mến. Rồi dữ liệu đó được bán cho các nhà quảng cáo, những người tạo ra những mẩu quảng cáo hướng đối tượng và được cá nhân hóa.
Có một lượng lớn đáng kể những người truy cập được vào dữ liệu của OKCupid. OKCupid, cùng với những công ti khác như Match và Tinder, thuộc sở hữu của IAC/InterActiveCorp, mạng lưới trực tuyến lớn thứ sáu trên thế giới. Nhào nặn một bản ngã trên OKCupid có thể hoặc không thể sinh ra tình yêu, nhưng chắc chắn sinh ra được lợi nhuận cho tập đoàn.
Hiện càng lúc càng nhiều người ý thức biết được rằng bản ngã kĩ thuật số của ta là món hàng. Giáo sư Laurel Ptak của New School gần đây công bố một bản tuyên ngôn mang tên “Lương cho Facebook” (Wages for Facebook) và vào tháng Ba năm 2014, Paul Budnitz và Todd Berger tạo ra Ello, một dạng thay thế cho Facebook vốn chỉ nổi tiếng trong thoáng chốc.
Ello tuyên bố: “Chúng tôi tin rằng mạng xã hội có thể là một công cụ tiếp sức mạnh. Chứ không phải một công cụ để lừa dối, ép buộc, và thao túng – mà là một nơi kết nối, sáng tạo, và ngợi ca cuộc sống. Bạn không phải là một món sản phẩm.” Ello hứa hẹn không bán dữ liệu của bạn cho bên quảng cáo thứ ba, ít nhất là vào lúc này. Họ bảo lưu quyền làm vậy (bán dữ liệu) trong tương lai.
Tuy nhiên, các thảo luận về việc rao bán các bản ngã kĩ thuật số bởi các công ti dữ liệu ở thị trường chợ xám (gray-market) và những tên tuổi khổng lồ ở Thung lũng Silicon lại thường tách biệt với những cuộc đàm luận về những hoàn cảnh làm việc bóc lột ngày càng tăng hoặc về thị trường đang dần nảy nở của những việc làm bấp bênh, hạ cấp. Nhưng đây không phải là những hiện tượng riêng biệt – chúng là những mảnh ghép có liên kết với nhau rất tinh vi của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
iCommodify (thương phẩm hoá trên mạng)
Tư bản cần phải tự sản sinh ra và tạo nhiều nguồn lợi mới qua thời gian và không gian. Nó phải liên tục tạo ra và củng cố sự tách biệt giữa người làm công ăn lương và chủ sở hữu tư bản, làm tăng giá trị mà nó rút ra từ người làm công, và thực dân hoá nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội nhằm tạo ra thương phẩm. Hệ thống này, và những mối quan hệ bao gồm nó, luôn chuyển động liên tục.
Sự bành trướng và sản sinh tư bản trong đời sống thường nhật và sự thực dân hoá những lĩnh vực mới trong đời sống xã hội do tư bản thực hiện là điều không phải lúc nào cũng hiển hiện. Việc nghĩ về điện thoại thông minh giúp chúng ta ghép các mảnh lại với nhau vì thiết bị này bản thân nó đã tạo điều kiện và củng cố những mô hình tích luỹ (tư bản) mới.
Sự tiến triển của công việc làm trong hơn ba thập niên qua được đặc trưng hoá bằng nhiều xu hướng – kéo dài ngày làm việc và tuần làm việc, hạ mức lương thực tế, giảm hoặc loại bỏ ra khỏi thị trường những mức bảo hộ ngoài lương (như mức trợ cấp cố định hoặc các quy định về y tế và an toàn lao động), nhân bội công việc bán thời gian, và sự suy giảm các công đoàn.
Đồng thời, các quy chuẩn liên quan đến sự tổ chức việc làm cũng đã chuyển đổi. Những mô hình tuyển dụng thời vụ, hướng đến dự án là những thứ đang được nhân bội lên. Người tuyển dụng không còn phải cung cấp mức đảm bảo việc làm hoặc giờ làm ổn định, và nhân viên không còn trông mong những việc như thế nữa.
Nhưng sự giáng cấp của công việc làm không phải là điều tất yếu. Bóc lột và khốn cùng hóa gia tăng là những khuynh hướng, chứ không phải là những hệ quả cố định vốn được định đoạt bởi các quy tắc tư bản chủ nghĩa. Chúng là kết quả từ những trận chiến mà ở đó người làm công đã thua và giới tư bản đã thắng.
Việc dùng điện thoại thông minh ở khắp nơi để kéo dài ngày làm việc và mở rộng thị trường cho những công việc hạ cấp là kết quả từ sự suy yếu ở giới làm công và ở những phong trào của tầng lớp lao động. Sự thôi thúc và tự nguyện của số người làm công ngày càng tăng trong việc gắn kết với giới tuyển dụng thông qua điện thoại chính là những điều đã bình thường hóa và biện minh cho việc dùng điện thoại thông minh làm công cụ bóc lột, và củng cố tính sẵn sàng thường trực của người lao động như là một yêu cầu để kiếm được đồng tiền.
Ngoại trừ vụ Đại Suy thoái, mức lợi nhuận của các công ti đã tăng đều đặn kể từ cuối thập niên 1980, và không chỉ là kết quả của việc tư bản (và nhà nước) làm giảm thắng lợi của phong trào lao động. Phạm vi của thị trường toàn cầu đã mở rộng và trở nên sâu sắc thêm, và sự phát triển của những món hàng mới đã tăng lên nhanh chóng.
Sự mở rộng và sản sinh tư bản tùy thuộc vào sự phát triển những món hàng mới này, mà trong đó nhiều món hàng xuất hiện từ sự thúc bách không ngừng của tư bản nhằm đưa những lĩnh vực mới trong đời sống xã hội vào phạm vi tìm kiếm lợi nhuận, hoặc như nhà kinh tế học chính trị Massimo De Angelis đã nói, để “đưa [những lĩnh vực] này vào hoạt động phục vụ cho những ưu tiên và mục đích [của tư bản]”.
Điện thoại thông minh nằm ở trung tâm trong quy trình này. Nó cung cấp một cơ chế vật lí cho phép việc truy cập liên tục vào những bản ngã kĩ thuật số của chúng ta và mở ra một mặt trận thương phẩm hóa mới mẻ.
Cá nhân không được trả lương cho việc tạo ra và duy trì bản ngã kĩ thuật số – họ được trả công bằng sự thoả mãn khi tham gia vào những nghi thức, và quyền kiểm soát được trao cho họ đối với những tương tác xã hội. Họ được trả công bằng cảm giác trôi nổi bồng bềnh trong thế giới kết nối ảo rộng mênh mông, cho dù điện thoại của họ làm trung gian kết nối các mối quan hệ xã hội, giúp người ta hình dung ra sự gần gũi nhau nhưng trên thực tế luôn giữ họ tách xa nhau trong vai trò những thực thể sinh lợi riêng biệt. Bản chất tự nguyện của những nghi thức mới này không làm họ thấy kém phần quan trọng, hoặc bớt sinh lợi hơn đối với tư bản.
Braverman cho biết “giới tư bản đã tìm thấy trong tính chất hết sức dễ nhào nặn của lao động con người một nguồn tài nguyên thiết yếu cho việc mở rộng tư bản”. Ba mươi năm đổi mới (công nghệ) vừa qua đã minh họa cho tuyên bố này, và điện thoại nổi lên như một trong những cơ chế chính yếu để kích hoạt, tiếp cận và dẫn hướng cho tính dễ nhào nặn này của lao động con người.
Điện thoại thông minh đảm bảo rằng chúng ta đang sinh ra ngày càng nhiều đời sống ở trạng thái thức tỉnh. Nó xoá đi ranh giới giữa lúc làm việc và lúc thư nhàn. Nhà tuyển dụng giờ đây có được quyền tiếp cận gần như vô tận đối với nhân viên của mình, và theo chiều hướng ngày càng tăng, việc duy trì công việc thậm chí lương thấp và bấp bênh sẽ dựa vào khả năng luôn có mặt và sẵn sàng cho công việc. Đồng thời, điện thoại thông minh mang đến cho người ta khả năng liên tục truy cập di động đối với những thứ tài nguyên kĩ thuật số chung và khả năng kết nối thông suốt, đổi lại họ phải bán đi bản ngã kĩ thuật số của mình.
Điện thoại thông minh xoá nhoà lằn ranh giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa xã hội và kinh tế, giữa tiền tư bản và tư bản, đảm bảo rằng cho dù ta dùng điện thoại cho công việc hay để giải trí, thì kết quả càng lúc càng như nhau – làm lợi cho giới tư bản.
Liệu sự có mặt của điện thoại thông minh có biểu thị cho thời khắc theo cách nói của Debor mà trong đó thương phẩm hoàn thành vai trò “thực dân hoá đời sống xã hội”? Liệu đó có là sự thật khi không chỉ mối quan hệ của ta với thương phẩm là điều dễ thấy, mà còn là chuyện “thương phẩm giờ đây là hết thảy những gì có thể thấy được?”
Điều này có vẻ như hơi chút quá lời. Việc tiếp cận được mạng xã hội và khả năng kết nối số thông qua điện thoại di động chắc chắn có những yếu tố mang ý nghĩa tự do. Điện thoại thông minh có thể giúp chống lại tình trạng tâm lý bất ổn do thiếu mục đích sống và nâng cao ý thức nhìn nhận về hoàn cảnh xung quanh, đồng thời làm cho người ta dễ dàng tạo ra và duy trì những mối quan hệ thực sự.
Một kết nối chung giữa những bản ngã kĩ thuật số còn có thể nuôi dưỡng sự kháng cự lại trật tự quyền lực mang tính thứ bậc hiện có vốn đang dùng những cơ chế nội tại nhằm cô lập và bịt miệng những tiếng nói cá nhân. Nếu không có điện thoại thông minh và truyền thông xã hội, thì không thể nào hình dung được là sẽ có những cuộc phản đối khởi phát từ vụ bạo loạn ở thanh phố Ferguson và từ sự tàn bạo của cảnh sát. Rốt cuộc, hầu hết mọi người vẫn chưa bị buộc phải sử dụng điện thoại thông minh cho công việc, và họ chắc chắn cũng không bị yêu cầu phải trình diễn bản ngã của mình thông qua công nghệ. Hầu hết người ta đều có thể ném điện thoại của họ xuống biển ngay ngày mai nếu họ muốn.
Nhưng họ không làm vậy. Người ta yêu thích chiếc điện thoại của mình. Việc giao tiếp chủ yếu qua điện thoại thông minh đang dần nhanh chóng trở thành quy chuẩn chấp nhận được, và ngày càng nhiều nghi thức đang dần được kết nối qua kĩ nghệ. Dần đóng vị trí trung tâm trong bản sắc con người là khả năng kết nối liên tục với các mạng lưới và thông tin mà chúng ta gọi là không gian mạng. Tại sao điều này đang xảy ra là một sự phỏng đoán khó khăn.
Nếu nói như chuyên gia về truyền thông và công nghệ Ken Hillis, thì đây liêu có phải chỉ đơn giản là một cách thức khác để “tránh cái Trống rỗng và sự vô nghĩa của cuộc sinh tồn?” Hoặc như tiểu thuyết gia và giáo sư Roxane Gay gần đây từng suy ngẫm, liệu khả năng của chúng ta trong việc kiểm soát hiện thân kĩ thuật số của mình có xoa dịu được cảm thức bất lực nằm sâu trong ta khi đối diện với bất công và lòng căm hờn?
Hoặc, như bậc thầy công nghệ Amber Case đã tự nhủ, liệu có phải tất cả chúng ta đang biến thành người bán cơ giới (cyborg)?
Có lẽ là không – nhưng điều đó còn tùy thuộc vào cách bạn định nghĩa về người bán cơ giới. Nếu người bán cơ giới là người dùng một công cụ kĩ nghệ hay một chiếc máy để khôi phục các chức năng đã mất hoặc để cải thiện khả năng và kiến thức của mình, thì người ta đã là người bán cơ giới từ lâu rồi, và việc dùng điện thoại thông minh cũng không khác gì việc dùng cánh tay giả, việc lái xe hơi, hay làm việc trong một dây chuyền lắp ráp.
Nếu bạn định nghĩa một xã hội bán cơ giới là xã hội mà trong đó các mối quan hệ con người được trung gian và được định hình bởi kĩ nghệ, thì dường như xã hội chúng ta chắc chắn đáp ứng được tiêu chí này, và điện thoại đóng vai chính trong đó. Nhưng những mối quan hệ và những nghi thức của chúng ta từ lâu đã có kĩ nghệ làm trung gian. Sự trỗi dậy của những trung tâm thành thị – những trung tâm của kết nối và cách tân – hẳn sẽ không thể xảy ra nếu không có đường ray và xe hơi.
Máy móc, kĩ nghệ, mạng lưới và thông tin không thúc đẩy hay tổ chức xã hội – mà chính con người làm việc đó. Chúng ta tạo ra các thứ và dùng các thứ tùy theo mạng lưới hiện có của những mối quan hệ xã hội, kinh tế và chính trị và theo sự cân bằng quyền lực.
Điện thoại thông minh, và cách thức nó định hình và phản ánh những tương quan xã hội hiện có, không mang tính chất siêu hình gì hơn mấy chiếc Ford Ranger từng lăn ra khỏi dây chuyền lắp ráp tại Edison, New Jersey. Điện thoại thông minh là một chiếc máy và là một thương phẩm. Quá trình sản xuất nó là tấm bản đồ của quyền lực toàn cầu, kho vận và bóc lột. Việc sử dụng nó định hình và phản ánh mối xung đột trường kì giữa những động lực của tư bản với sự kháng cự của những người còn lại trong chúng ta.
Ở thời điểm hiện tại, nhu cầu của giới tư bản trong việc bóc lột và thương phẩm hóa đã được củng cố bằng nhiều cách thức mà điện thoại thông minh được sản xuất và tiêu dùng, nhưng thắng lợi của tư bản không bao giờ được bảo đảm và bất diệt. Những phần thắng đó phải luôn được làm mới và được bảo vệ ở mọi bước đi. Chúng ta có sức mạnh để chống lại và phủ nhận những phần thắng của tư bản, và chúng ta nên làm vậy. Có lẽ những chiếc điện thoại của chúng ta sẽ trở nên có ích trong những lúc như thế.